Chúa Nhật 27.11.2022 – CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG năm A BÀI ĐỌC I: Is 2, 1-5 "Thiên Chúa quy tụ các dân tộc trong nước Người, để hưởng bình an đời đời". Bài trích sách Tiên tri Isaia. Điềm Isaia con trai của Amos đã thấy về Giuđa và Giêrusalem. Điềm sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, là núi của nhà Chúa được xây đắp trên đỉnh các núi, và núi ấy sẽ cao hơn các đồi, và các dân nước sẽ đổ về đó. Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: "Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà Thiên Chúa của Giacóp. Người sẽ dạy chúng ta đường lối của Người, và chúng ta sẽ đi theo ý định của Người"; vì luật pháp sẽ ban ra từ Sion, và lời Chúa sẽ phát ra từ Giêrusalem. Người sẽ xét xử các dân ngoại và khiển trách nhiều dân tộc. Họ sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa; người ta cũng sẽ không còn thao luyện để chiến đấu nữa. Hỡi nhà Giacóp, hãy đến, và chúng ta hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa. Đó là lời Chúa. ĐÁP CA: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5. 6-7. 8-9 Đáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa"(c. 1). 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. 2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. 3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Đavít. 4) Hãy nguyện cầu cho Giêrusalem được thanh bình, nguyện cho những kẻ yêu mến ngươi được an ninh. Nguyện cho trong thành luỹ được bình an, và trong các lâu đài của ngươi yên ổn. 5) Vì anh em và bằng hữu của tôi, tôi nguyện chúc: bình an cho ngươi! Vì nhà Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tôi khẩn cầu cho ngươi những điều thiện hảo. BÀI ĐỌC II: Rm 13, 11-14 "Phần rỗi chúng ta gần đến". Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma. Anh em thân mến, biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt. Đó là lời Chúa. ALLELUIA: Tv 84, 8 All. All. - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. - All. PHÚC ÂM: Mt 24, 37-44 "Hãy tỉnh thức để sẵn sàng". Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến. "Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến". Đó là lời Chúa. SUY NIỆM: 1. Hãy sẵn sàng--‘Manna’ Suy Niệm Vào một ngày của tháng 10 năm 1992, một số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ để chờ ngày tận thế đến vào lúc nửa đêm. Có người đã bán nhà và xin nghỉ việc, nhưng dĩ nhiên đó không phải là ngày tận thế. Kinh Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào. Đức Giêsu cũng bảo là Ngài không biết (Mt 24,36). Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời đồn thổi, nhưng kiên tâm chờ đợi trong hy vọng. Đây không phải là thứ nơm nớp chờ đợi, khoanh tay, nhưng là thứ chờ đợi bằng cách sống hết mình để chuẩn bị cho trái đất đón Chúa trở lại. Mùa Vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử. Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Đó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết. Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng. Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu. Có lẽ chúng ta hôm nay mong chờ Chúa đến ít hơn các Kitô hữu thuở ban đầu. Chẳng ai thích nghĩ đến ngày tận thế. Tận thế bị coi là chuyện tương lai xa vời. Cuộc sống hiện tại có vô số mối lo âu và hy vọng: ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, làm ruộng, xay bột. Thật ra, nghĩ đến ngày tận thế cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình. Cái chết dạy người ta biết cách sống. Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới trên nền tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn. Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không phải là ngày buồn, ngày của hủy diệt và tang tóc, nhưng là ngày của thân xác được sống lại, ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe dọa. Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm. Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài. Sẵn sàng là cùng với Chúa xây dựng một trái đất đầy tình thương và công lý. Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn tới Thiên đàng. Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất ngờ, nhưng nó sẽ ít bất ngờ đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi. Gợi Ý Chia Sẻ Theo ý bạn, có sự giằng co giữa đời này và đời sau nơi người Kitô hữu không? Làm sao để mối lo toan về đời này không làm ta sao nhãng đời sau? Làm sao để mối quan tâm về đời sau lại thêm sức cho ta chu toàn bổn phận đối với đời này? Nếu ngày mai tận thế, hôm nay bạn làm gì? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa. Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ. Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. 2. Mùa Vọng với hai hy vọng 2013--GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo. 1. Mùa Vọng, tôi có hai hy vọng. Hy vọng thứ nhất là hy vọng tôi biết đón nhận Chúa. Hy vọng thứ hai là hy vọng tôi được Chúa đón nhận tôi. Hy vọng vẫn là hy vọng, nghĩa là chỉ trong ước mong. Còn điều tôi ước mong có được thực hiện hay không lại là chuyện khác. Tôi rất lo cho sự thực hiện hai hy vọng trên đây của tôi. Nỗi lo của tôi có cơ sở Phúc Âm và thực tế lịch sử. 2. Trước hết, xin nói về hy vọng biết đón nhận Chúa. Phúc Âm cho thấy nhiều người theo đạo Chúa thời Đức Giêsu Kitô xuất hiện, đã không biết đón nhận Người. Thánh Gioan Tông đồ đã viết ngay trong “lời tựa” Phúc Âm của Ngài những câu đau đớn: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có. Nhưng thế gian lại không nhận biết Người, Người đã đến nhà mình, nhưng những người nhà lại chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,9-11). Thực là phũ phàng. 3. Sự thực phũ phàng đó lại xảy ra ngay tại Nadarét, là quê hương của Chúa Giêsu. Thánh sử Luca viết: “Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát, và đứng lên đọc sách thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó ... Người bắt đầu nói với họ: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Người nói với họ: Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình. Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, là quê hương của ông xem nào. Người trả lời: Tôi bảo thật các ông: Không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương. ... Mọi người trong hội đường đều phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,16-20). Đồng hương của Chúa Giêsu không những không đón nhận Người, mà còn định tiêu diệt Người. Thực là một sự thực phũ phàng đầy đau đớn. 4. Sự thực phũ phàng đau đớn như thế lại đã xảy ra một cách độc ác ngay chính những người đứng đầu đạo Chúa thời Chúa Giêsu. Thánh sử Marcô ghi lại một cách rõ ràng: “Hai ngày trước lễ Vượt qua và lễ không men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu để bắt Đức Giêsu mà giết đi. ... Họ điệu Đức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đều tựu lại... Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng hội đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giêsu để làm án tử hình, nhưng họ không tìm ra ... Họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho quan Philatô. Các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô lên án giết Đức Giêsu” (Mc 14,1-11). 5. Những chuyện phũ phàng đau đớn và ác độc trên đây không phải là không tái diễn trong lịch sử Hội Thánh dưới nhiều hình thức khác nhau, rải rác đó đây, nơi này nơi nọ. 6. Chuyện xua đuổi Chúa một cách quy mô có thể là không nhiều. Nhưng chuyện dửng dưng không đón nhận Chúa là chuyện phải nói là thông thường. Chúa phán: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa ra, thì Ta sẽ vào nhà người ấy” (Kh 3,20). Biết bao lần, tôi đã không tỉnh thức nghe tiếng Chúa gõ cửa lòng tôi. Biết bao lần, tôi nghe tiếng Chúa gọi, nhưng tôi đã không mở cửa lòng tôi ra, để đón Chúa. Không đón Chúa đến với mình, đó là một thực tế đau lòng, mà tôi thấy đang xảy ra nơi nhiều người đạo Chúa. Thực tế đau lòng đó cũng rất có thể đang xảy ra nơi tôi. Lạy Chúa, xin Chúa xót thương con. 7. Bây giờ, tôi nhìn sang hy vọng thứ hai của tôi, đó là hy vọng tôi được Chúa đón nhận. Phúc Âm cho thấy điều này: Những điều Chúa Giêsu giảng dạy dưới mọi hình thức đều quy về mục đích đưa con người vào chính lộ dẫn về Nước Trời, nơi được hạnh phúc trường sinh bên Chúa. Những ai đi vào chính lộ, phấn đấu làm điều phúc đức, tránh điều tội lỗi, bước theo Chúa đến cùng, sẽ được Chúa đón nhận vào thiên đường. Còn những ai làm theo ý riêng mình, không từ bỏ tội lỗi, không sám hối, trở về với Chúa, sẽ không được Chúa đón nhận. Những ai được Chúa đón nhận và những ai không được Chúa đón nhận đều đã được Chúa nói rõ trong Phúc Âm, nhất là trong nhiều dụ ngôn, đặc biệt là trong bài nói về ngày phán xét. 8. Phán đoán của Chúa rất công minh, và rất nhiệm mầu. Nhưng chắc chắn điều này là: Chúa ưa thích những ai khiêm nhường, chân thành, tin cậy vào Chúa và biết xót thương người khác, luôn tìm thực thi ý Chúa và biết sám hối. Tôi nhớ tới người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7,38-50) và người trộm cướp bị đóng đinh bên hữu Chúa (x. Lc 23,40-43). Có thể nói tinh thần hưởng thụ, nếp sống thực dụng và thói quen đưa mình lên luôn là những cản trở khiến con người mọi nơi mọi thời không được Chúa đón nhận. Lời Chúa phán sau đây làm tôi lo sợ: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng nhân danh Thầy mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Nhưng, bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố vói họ: Ta không hề biết các ngươi là ai. Hãy xéo đi cho khuất mặt Ta, hỡi những kẻ làm điều gian ác” (Mt 7,22-23). Như vậy, tôi đừng có chủ quan tự mãn với những việc tôi làm, mà tôi tưởng là lành thánh. Bởi vì rất có thể khi tôi làm những việc đó, đã có pha mục đích khoe khoang, và trái ý Chúa. 9. Với vài suy nghĩ trên đây, tôi thấy Mùa Vọng của tôi sẽ là thời gian quý giá để rà soát lại hai hy vọng của tôi. Tôi rà soát lại bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, là hai phụ nữ quan trọng trong mùa Vọng. Đức Mẹ Maria đã đón nhận Chúa một cách rất khiêm nhường, phó thác. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Mẹ một cách bất ngờ với tình yêu thương xót, và đã làm nơi Mẹ những sự lạ lùng, vì danh Người là Thánh. Bà thánh Isave đã đón nhận Chúa với lòng tin mãnh liệt và tâm tình cảm tạ khiêm cung. Còn Chúa, Chúa đã đón nhận Bà một cách tế nhị kín đáo với một chương trình cứu độ hết sức lớn lao. Đức Mẹ Maria cưu mang Chúa Giêsu, bà Isave cưu mang thánh Gioan Baotixita. Cả hai phụ nữ cưu mang ấy đã rất âm thầm, nhưng đã cộng tác rất đắc lực với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ở bên Đức Mẹ Maria và bà thánh Isave, tôi trở thành bé nhỏ. Và tự nhiên, tôi hiểu bé nhỏ, khiêm nhường, nghèo khó, tin tưởng ở Chúa chính là những điều kiện cần, để sống mùa Vọng với hai hy vọng của tôi. Nghèo khó, khiêm nhường, bé nhỏ, tin cậy ở Chúa là mấy nét căn bản của đời sống nội tâm Kitô giáo. Nếu thiếu đời sống nội tâm với những nét căn bản đó, tôi có thể sẽ chỉ còn là người của một cơ chế tôn giáo, chứ không là chứng nhân đích thực của đức tin. Lạy Chúa, xin thương xót con. 3. Sẵn sàng đón Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa. Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này. Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương. 1) Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm hiện tại Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục sống, làm việc, thăng tiến. Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun tưới. Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách. Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để đóng một con tàu lớn như thế. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn hiện tại. 2) Sống tích cực giây phút hiện tại để chuẩn bị cho tương lai. Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho tương lai. Người học trò muốn có tương lai tươi sáng không thể chỉ ngồi đó chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo học hành. Người nông phu muốn có mùa gặt bội thu không thể khoán trắng công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng phải cần cù chăm chỉ dầm mưa dãi nắng. Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh. Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa. Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách, những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen. GỢI Ý SUY NIỆM 1) Có nhiều người chỉ quan tâm tới đời sau mà không chịu làm việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo làm ăn sinh sống mà không nghĩ đến đời sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó? 2) Ta phải sống thế nào để chu toàn nhiệm vụ hiện tại với bản thân, với gia đình mà không quên Chúa, không quên phần linh hồn của mình? 3) Tuần này, bạn sẽ làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến? 4. Con hướng về Chúa 2016--GM. Giuse Vũ Văn Thiên Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó cũng là niềm vui và hạnh phúc Chúa ban cho những ai chuyên tâm quy hướng về Ngài. Con hướng về Chúa Như đất khô mong nước nguồn Như tuần phiên mong trời sáng Như con thơ mong mẹ hiền (Thánh ca) Lời của bài Thánh ca diễn tả niềm khát vọng của con người luôn hướng về Chúa, bất kể họ thuộc về thời đại hoặc nền văn hoá nào. Con người cần Chúa như thân xác cần hơi thở, như đất cần có mưa. Niềm mong đợi Chúa vừa thiêng liêng cao cả, vừa thân thiết gần gũi. Không có Chúa, đời sống sẽ khô cằn, vô nghĩa. Vắng bóng Ngài, cuộc đời sẽ lạc lõng, đau thương. “Con hướng về Chúa”, đó là lời tuyên xưng đức tin vào Đấng là nguyên lý của muôn vật muôn loài. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng thiên nhiên vũ trụ và con người. Ngài dựng nên mọi sự từ hư vô. Ngài tiếp tục điều khiển vũ trụ, làm cho nó chuyển động trong trật tự kỳ diệu. Nhờ Chúa mà bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, thay nhau đắp đổi. Do Ngài mà bát tiết, tháng năm trật tự xoay vần. Với tình yêu thương quan phòng, Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ để công trình tạo thành của Ngài ngày càng tiến triển, đạt tới tầm vóc hoàn hảo trong tương lai, vào thời điểm Ngài muốn. Trong số các tạo vật, con người được Chúa ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Ngài còn phú bẩm cho họ linh hồn bất tử. Thiên Chúa cũng chia sẻ cho con người vinh quang của Ngài. Ngài dựng nên họ để hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Khi tôn nhận Chúa là nguyên lý của muôn vật muôn loài, chúng ta sẽ yêu mến thiên nhiên và yêu mến cuộc sống này hơn, vì vũ trụ này phản ánh vinh quang và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Hướng về Chúa là khuynh hướng tự nhiên thuộc bản tính con người, giống như nam châm hút sắt, như đoá hoa hướng dương ngả về mặt trời. Trong nỗi khắc khoải hướng về Chúa, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên: “Ngay từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (Tv 62,2). Từ xa xưa, khi con người bắt đầu hiện hữu trên trái đất, cũng là lúc con người khởi đầu những nỗ lực tìm kiếm Chúa, nhưng họ lầm tưởng Ngài với những hiện tượng thiên nhiên huyền bí. Đó là lý do tại sao những bộ lạc hoang sơ đã thờ mặt trời mặt trăng, cây đa cây đề, hoặc thần núi thần sông, thần sấm thần sét. Họ quan niệm rằng những hiện tượng và thực tại đó là những thần linh cao cả quyền năng. “Con hướng về Chúa”, đó là tâm tình yêu mến của những ai tin vào Đấng là Cha chung của gia đình nhân loại. Tâm tình ấy thân thiết, gần gũi ấm êm “như con thơ mong mẹ hiền”. Chúa là Đấng đáng yêu đáng mến, vì Ngài tốt lành thánh thiện, và nhất là Ngài đã dựng nên chúng ta và cho chúng ta hiện hữu trên đời. Ngài còn ban cho chúng ta biết bao điều tốt lành trong cuộc sống. Trước những điều may mắn phúc lộc xảy đến trong cuộc đời, nhiều người nghĩ đó là điều ngẫu nhiên, nhưng những ai tin Chúa đều nhận ra đó là ân ban do lòng từ tâm và thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã khẳng định với chúng ta, những sợi tóc trên đầu mỗi người cũng được Chúa đếm cả, những con chim sẻ không tích trữ kho lẫm vẫn được Chúa nuôi dưỡng và những bông hoa huệ ngoài đồng không may vá dệt cửi vẫn được Chúa mặc cho vẻ đẹp huy hoàng (x. Mt 6,25-29). Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha bằng tâm tình thân thương hiếu thảo: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Yêu mến Đấng đã dựng nên mình và là Cha của mình, đó là tình cảm tự nhiên và đó cũng là bổn phận của lòng hiếu thảo. Lòng yêu mến ấy giúp chúng ta mỗi ngày một đến gần Chúa hơn trong sự kết hiệp thâm sâu mà chúng ta thường gọi là đời sống nội tâm. Tâm tình ấy cũng giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, mỗi ngày một rõ nét hơn, để rồi, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Ý thức Chúa sống trong tâm hồn, người tín hữu sẽ dễ dàng nên hoàn thiện trong lời nói, tư tưởng cũng như việc làm. Họ sẽ tìm thánh ý Chúa, cố gắng sống đẹp lòng Ngài và coi đó là điều ưu tiên quan trọng nhất trong đời. “Con hướng về Chúa”, đó là lời cầu nguyện diễn tả niềm hy vọng cậy trông của người tín hữu. Giữa cuộc đời chìm nổi truân chuyên, nào ai biết những gì bất chợt sẽ đến? Giữa dòng đời bon chen xuôi ngược, nào ai đoán được hậu vận tương lai? Người tin Chúa luôn phó thác nơi Ngài, tin chắc rằng không bao giờ Ngài dửng dưng trước lời cầu nguyện chân thành tha thiết. Chúa Giêsu đã hứa: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho” (Mt 7,7). Người cũng hứa ngự giữa chúng ta khi chúng ta hội họp cầu nguyện nhân danh Người (x. Mt 18,19). Hướng về Chúa chính là niềm xác tín vào lời hứa ấy. Niềm cậy trông vào Chúa nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, đồng thời là nguồn sức mạnh giúp chúng ta vượt lên những khó khăn thử thách trên đường đời. Niềm hy vọng cũng giúp chúng ta nhìn cuộc đời này lạc quan hơn, để cùng nhau hướng thiện, dù còn nhiều bóng tối vây quanh bao phủ. Sống mà không có niềm hy vọng, con người giống như người mộng du ảo giác, lang thang vô định. Không có niềm hy vọng, chúng ta sẽ nhìn cuộc đời đen tối tiêu cực và dễ chán nản. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng hướng về Ngài, cầu xin Ngài giáng phúc ban ơn, để cuộc sống của chúng ta được bình an. “Con hướng về Chúa”, tâm tình này thể hiện cuộc lữ hành trần thế của mỗi chúng ta. Sống một ngày trên đời là tiến tới gần Chúa hơn. Chẳng ai sống mãi ở đời này, nhưng mỗi người sinh ra được Chúa cho một quỹ thời gian nhất định. Hết quỹ thời gian đó, họ phải kết thúc cuộc sống, từ giã cõi đời. Mọi người sống trên đời, giàu sang phú quý hay nghèo nàn bất hạnh rồi cũng phải chết như nhau, nhưng hậu vận của họ lại không giống nhau. Những người sống một đời thánh thiện yêu thương sẽ được hưởng phúc thiên đàng; những ai sống bất công gian dối sẽ phải đau khổ trầm luân. Đừng vội trách Chúa nghiêm khắc với tội nhân! nhưng hãy tự trách mình đã dửng dưng và để lỡ nhiều cơ hội. Hạnh phúc thiên đàng hay hình phạt hỏa ngục là do chính mình tự chọn, qua thái độ sống ở đời. Chúa Giêsu đã nói tới hai con đường: con đường thênh thang rộng mở dẫn tới sự chết; con đường nhỏ hẹp khó đi dẫn tới sự sống (x. Mt 7,13-14). Nhiều người đã muốn chọn con đường rộng rãi thênh thang cho mình. Đó là sự buông thả, dễ dãi, chiều theo những tham vọng đam mê và ích kỷ. Mỗi người phải gánh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy của mình. Mỗi năm, khi Mùa Vọng về, Giáo Hội mời gọi các tín hữu cùng hướng về Chúa. Lời ngôn sứ diễn tả niềm khao khát của nhân loại mọi nơi mọi thời: “Trời cao, hãy đổ sương mai! Ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công chính” (Is 45,8). Niềm khao khát ấy, cũng nồng nàn tha thiết như đất mong nước nguồn, như tuần phiên mong trời sáng và như con thơ mong mẹ hiền. Người Kitô hữu hôm nay không còn mong đợi Đấng Công chính với tâm trạng của thời ngôn sứ Isaia. Bởi lẽ Đấng Công chính là Đức Giêsu Kitô đã giáng trần cách nay hơn hai ngàn năm. Người đã đi vào lịch sử nhân loại với sứ mạng rao giảng tình thương của Thiên Chúa. Hôm nay, Người đang hiện diện giữa chúng ta. Khi nỗ lực đón Chúa ngự đến tâm hồn, chúng ta sẽ được hưởng sự ngọt ngào của ân sủng. Đó cũng là niềm vui và hạnh phúc Chúa ban cho những ai chuyên tâm quy hướng về Ngài. 5. Chờ đợi trong hy vọng--GM. Giuse Vũ Văn Thiên Mỗi người trong chúng ta đã có lần chờ đợi. Chúng ta chờ đợi một biến cố quan trọng trong đời; chờ đợi người đi xa trở về; chờ đợi một tin vui của người thân. Cuộc chờ đợi nào cũng làm chúng ta hồi hộp lo lắng xen lẫn với khấp khởi mừng vui. Trong khi chờ đợi, thời gian dường như trôi đi rất chậm, rất dài. Mùa phụng vụ đầu tiên trong năm mới có tên là Mùa Vọng hay Mùa Đợi. Chúng ta chờ đợi Chúa đến. Đức Giêsu đã đến hai ngàn năm nay trong lịch sử, nhưng đối với mỗi cá nhân sống trên cõi đời này, thì Người vẫn đang đến. Và thế là, mỗi ngày sống của chúng ta trên trần gian là một ngày chờ đợi để gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ này mang màu sắc lạc quan hay bi quan tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người. Đối với ai thành tâm kiếm tìm Chúa thì cuộc gặp gỡ ấy là niềm vui và hạnh phúc. Đối với ai chỉ coi giá trị vật chất đời này là đích điểm, thì cuộc gặp gỡ ấy là sự kết án đau thương. Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ yêu thương giữa Thiên Chúa với con người, Phụng vụ Mùa Vọng mở đầu bằng lời kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Chúa Giêsu trích dẫn sự kiện trong lịch sử Thánh Kinh mà người Do Thái nào cũng biết, đó là biến cố Đại Hồng thủy. Khi ông Nôê đóng tàu thì có nhiều người chê cười ông. Nhưng khi nước dâng lên thì họ bị nước cuốn trôi. Chúa kêu gọi mọi người hãy học bài học lịch sử đó như một kinh nghiệm sống, để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ nào và ngày nào sẽ là lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân chúng ta. Lúc tận cùng ấy huyền nhiệm và khó hiểu, được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai người đang xay bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất ngờ như người chủ đi xa trở về bất chợt, vào lúc những người giúp việc không ngờ. Tỉnh thức để đón Chúa, người tín hữu cũng được kêu mời tỉnh thức đối với anh chị em mình. Ngày nay người ta nói nhiều đến chứng bệnh vô cảm. Con người trở nên dửng dưng lạnh lùng trước những nhu cầu và nỗi đau của người thân hoặc những người xung quanh. Con đường dẫn ta đến gặp Chúa là con đường được nối kết bằng những việc bác ái ta làm đối với anh chị em mình. Bởi lẽ chúng ta không chỉ đi một mình đơn lẻ để gặp gỡ Chúa, mà ta đi với anh chị em, trong tình mến thân thiện của những người có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa tối cao. Không thể sống tinh thần Mùa Vọng mà lại dửng dưng hay thù ghét anh chị em của mình. Khi Chúa đến gặp ta, Người sẽ xét xử về cách sống của ta đối với những người xung quanh, nhất là những người nghèo khổ và bất hạnh. Như vậy, “tỉnh thức” có nghĩa là quan tâm đến người khác và ân cần giúp đỡ họ. Lời Chúa trong ngày mở đầu Năm Phụng vụ mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuốc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người. Hãy thức dạy những ai ngủ mê! Hãy ra khỏi bóng tối của ích kỷ hận thù, để bước vào ánh sáng huyền nhiệm của bác ái thứ tha. Sống theo ánh sáng, đó là một điều kiện không thể thiếu đối với những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Đức Giêsu. Cuộc đời này là sự chờ đợi liên lỉ. Chờ đợi Chúa không giống như tìm kiếm sự may rủi hay một cơ hội có thể đến mà cũng có thể không. Chúng ta chờ đợi Chúa trong sự xác tín vào quyền năng của Ngài, và chắc chắn Người sẽ đến. Cuộc đời này được sánh ví như một con đường. Mỗi người chúng ta đang đi trên con đường đó. Ở cuối của con đường này, Chúa đang chờ đợi chúng ta, vì thế mà sự đợi của chúng ta là chờ đợi trong hy vọng. Chúng ta cũng tin chắc Chúa là Đấng yêu thương, luôn dành những điều bất ngờ cho những ai giữ một lòng trung tín và cậy trông nơi Người. 6. Lòng hiếu khách--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên Cuộc gặp gỡ giới trẻ châu Á do Cộng đoàn Taizé tổ chức tại Hong Kong vào tháng 8 năm 2019 đã chọn đề tài “Chúng ta đừng quên lòng hiếu khách”. Câu Kinh Thánh này được trích dẫn từ Thư gửi tín hữu Do Thái: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Nếu chúng ta cần tỏ lòng hiếu khách, là vì Thiên Chúa cũng rất quảng đại đón tiếp chúng ta. Qua công trình tạo dựng, Ngài đã gọi chúng ta từ hư vô tới hiện hữu. Khi chúng ta phạm tội, Ngài đã giang rộng vòng tay đón chào chúng ta trở về. Lòng hiếu khách của Thiên Chúa, vừa tạo dựng chúng ta, vừa tha thứ cho chúng ta với tình cha nhân hậu thắm thiết. Chúng ta đã bước vào Mùa Vọng, là thời điểm nhắc nhớ chúng ta: Con Thiên Chúa đã đến trong lịch sử. Tài liệu hướng dẫn suy niệm của Cộng đoàn Taizé viết: “Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là tình yêu, trao gửi cho chúng ta tình bằng hữu. Một cách khiêm nhường, Chúa Kitô đứng trước nhà chúng ta và gõ cửa. Như một người nghèo, Người hy vọng và chờ đợi sự hiếu khách của chúng ta. Nếu ai đó mở cửa cho Người, Người sẽ bước vào”. Vâng, Chúa Giêsu đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay, Người vẫn tiếp tục đến trong tâm hồn chúng ta. Người kiên nhẫn gõ cửa và chờ đợi chúng ta mở cửa. Đó không phải là cánh cửa của một căn nhà, nhưng là cửa tâm hồn. Những ai mở rộng cửa tâm hồn để đón chào Chúa, chắc chắn sẽ gặp được bình an và hạnh phúc. Lòng hiếu khách đối với Ngôi Lời nhập thể, nhưng mỗi chúng ta cũng phải có lòng hiếu khách đối với anh chị em mình, bởi vì, như lời tác giả thư Do Thái trích dẫn trên đây, trong khi chúng ta đón tiếp anh chị em, chúng ta được đón tiếp các thiên thần của Thiên Chúa và được đón tiếp chính Chúa Giêsu, vì Người đã tự đồng hóa với những người bé mọn, cô thế cô thân và không nơi nương tựa. Để thể hiện lòng hiếu khách một cách cụ thể, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Sự tỉnh thức được nói đến trong Kinh Thánh, chính là sự khôn ngoan, cân nhắc và thận trọng để lựa chọn cho mình một hướng đi, một nghề nghiệp và một lối sống. Tỉnh thức cũng là sự sẵn sàng để bất cứ Chúa đến lúc nào, chúng ta không bị bất ngờ. Câu chuyện ông Nôê và trận đại hồng thủy là một bài học cho con người ở mọi thời đại. Khi ông Nôê đóng tàu, có nhiều người chê cười nhạo báng vì cho đó là điều ảo tưởng vô ích. Con người ngày nay cũng bỏ ngoài tai những lời giáo huấn của Chúa. Họ chỉ chú ý đến cuộc sống hiện tại, lấy vật chất làm tiêu chuẩn, lấy lợi nhuận làm định hướng cho cuộc đời. Theo thánh Phaolô, tỉnh thức nghĩa là sống đàng hoàng, như ban ngày và từ bỏ những hành vi ám muội. Những kẻ trộm cắp hay hành động về ban đêm. Thánh nhân khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Ngài cũng giải thích chi tiết khái niệm “sống giữa ban ngày”: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương”. Nhờ vậy, khi Chúa đến, chúng ta được thanh thản tâm hồn để đón Người. “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự chờ đợi nào cũng dễ làm cho chúng ta nóng lòng sốt ruột. Chúa đã hứa: những ai kiên trì và trung thành tỉnh thức sẽ được Chúa ban thưởng, vì họ có lòng hiếu khách và trân trọng đợi chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến trước hết là khi chúng ta kết thúc cuộc đời. Ai cũng sợ chết nhưng chẳng ai phủ nhận được sự chết. Dù trường thọ cao niên, dù dồi dào bổng lộc, chẳng ai sống mãi trên đời. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: Giờ chết là giờ phán xét riêng. Mỗi người phải trình diện trước nhan Chúa về hành vi cử chỉ của mình đối với Chúa và đối với tha nhân. Ngày Chúa đến cũng là ngày “quang lâm”, tức là Chúa đến trong vinh quang để phán xét nhân loại. Đó là ngày vinh quang đối với những ai sống công chính, nhưng là ngày đại họa cho những kẻ sống hận thù. Chúa Giêsu là vị Thẩm phán công minh, sẽ căn cứ vào mối tương quan với tha nhân của chúng ta mà xét xử (x. Mt 25, 31-46). Lời ngôn sứ Isaia (Bài đọc I) mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuộc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người. Chúa Giêsu đã đến trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Chúa vẫn đến với tâm hồn cá nhân mỗi người. Chúng ta hãy thể hiện lòng hiếu khách đối với Chúa, vừa đón Chúa đến trong tâm hồn, vừa dọn đường để Người đến nơi mọi nẻo đường trần gian, hầu vương quốc hòa bình của Chúa được lan tỏa khắp nơi. 7. Bất ngờ và thức tỉnh--GM. Giuse Trần Văn Toản Giáo Hội bắt đầu năm phụng vụ với mùa vọng. Đây là mùa đón chờ Chúa đến. Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm A, Mt 24, 37-44, Chúa Giêsu cảnh báo: “Các con hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Đây là tính bất ngờ của việc Chúa đến, và vì bất ngờ, nên phải luôn tỉnh thức. Tính bất ngờ của việc Chúa đến: Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu trưng dẫn sự kiện xảy ra thời ông Noe: “Thời ông Noe thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noe vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (c.37-39). Trong lịch sử thánh, Chúa đã bất ngờ giáng sinh trong máng cỏ như một hài nhi của một gia đình di dân không tìm được quán trọ tại Belem (Mt 2,7). Tính bất ngờ của việc Chúa đến vẫn còn xảy ra trong hiện tại cho đến ngày cánh chung. Vì, một trong những cách mà Chúa ưu tiên chọn lựa để đến với ta hàng ngày là Chúa đến qua những người đói khát, người khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đày (Mt 25,31-46). Vì bất ngờ nên phải thức tỉnh: Chúa Giêsu so sánh với thái độ thức tỉnh canh chừng kẻ trộm của người chủ nhà: “Anh em hãy biết điều này, nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c.43-44). Trong biến cố Chúa đến lần thứ I tại Belem, chỉ một nhóm nhỏ thức tỉnh và đã gặp Chúa. Đó là Mẹ Maria và Thánh Giuse, ông Giacaria và bà Isave, các mục đồng và các nhà đạo sĩ, ông Simeon và bà Anna. Để đợi chờ Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang, sách Khải Huyền dạy ta phải thức tỉnh mới lắng nghe được tiếng Chúa gõ cửa đời ta: “Hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn. Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 19-20). Thức tỉnh là sống tốt giây phút hiện tại: Quá khứ là những gì đã qua, tương lai là những gì chưa tới, và ta chỉ có hiện tại để sống. Chính vì thế, ta cần ý thức rằng: thường thì ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể phá hủy hiện tại bằng cách quá tiếc nuối quá khứ, và quá lo lắng cho tương lai. Thức tỉnh sống hiện tại là phải sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời ta. Vì là ngày cuối cùng, nên phải “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự” (2Cr 5,9). Và lời khuyên của Thánh Phaolô luôn là cần thiết và hữu ích: “Thưa anh em, chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ (1Tx 5, 4-6)… Hãy từ bỏ những hành vi ám muội… không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghanh tị… chớ lo lắng và thỏa mãn những dục vọng xác thịt” (Rm 13,11-14). Thức tỉnh cần thinh lặng trở lại với lòng mình để thiết lập tương quan với Thiên Chúa: Thường xuyên trở lại với lòng mình trong thinh lặng nội tâm, tâm hồn ta được coi như mảnh vườn thiêng liêng, trong đó, Chúa Thánh Thần như “Bác Làm Vườn” thường xuyên chăm sóc và chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ thiêng liêng giữa ta với Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, Chúa thức tỉnh hồn ta về khát vọng Thiên Chúa của ta vì ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Từ khát vọng này, đi đến ý thức rằng không phải ta khát vọng Thiên Chúa trước, mà thực ra, chính Thiên Chúa khát vọng ta, và vì thế Ngài luôn đến tìm ta, chờ đợi ta, và vui thích ở với ta. “Mỗi buổi chiều, trong gió hiu hiu, Thiên Chúa đến địa đàng đi dạo và đàm đạo với Adam và Eva (x. Kn 3,8). Đây là lúc ta có thể thốt lên như Thánh Augustinô: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa, và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa mà thôi”. Khát vọng này tạo nên sự thức tỉnh trong cuộc sống, như hơi thở, như nhịp đập của con tim, như dòng máu lưu thông trong thân thể… Thiết lập tương quan với Chúa để ta cũng thiết lập tương quan với tha nhân: Đó là tương quan của ta với con người thời đại. Người môn đệ Chúa Kitô, theo gương mẫu của Thầy Chí Thánh trong mầu nhiệm Nhập Thể, tìm thiết lập các tương quan bằng chia sẻ cuộc sống với những cảm thông, bao dung, và đồng hành. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công đồng Vaticanô II viết: “Vui Mừng và Hy Vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” (số 1). Hơn nữa, người Kitô hữu, còn tìm thiết lập các tương quan bằng tinh thần yêu thương và khiêm tốn phục vụ nhau như Đức Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thế: “Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Nhất là, người môn đệ của Đức Kitô sống theo lý tưởng của Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua, đã hiến thân vì anh chị em, “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người”. Trong tương quan với tha nhân, không những ta gặp được Chúa mà còn bước theo gương mẫu yêu thương, phục vụ, và tận hiến. Thiết lập tương quan với Chúa và với tha nhân, để ta cũng thiết lập tương quan với thiên nhiên trong tâm tình ngợi khen, tạ ơn và trách nhiệm: Thông điệp “Chăm sóc ngôi nhà chung – Laudato si” đã dùng bài ca vạn vật của Thánh Phanxicô để ca tụng Đấng Tạo Thành: “Lạy Thiên Chúa của con, chúc tụng Chúa qua người chị của chúng con, Mẹ trái đất, là người nuôi dưỡng và chi phối chúng con, là người sản sinh hoa trái phong phú với biết bao hoa thơm cỏ lạ” (số 1). Và số 9 viết: “Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đón nhận thế giới như một bí tích của sự hiệp thông, một cách chia sẻ cùng Thiên Chúa và anh chị em đồng loại trên quy mô toàn cầu…”. Chính trong tương quan với thiên nhiên này, mà ta ý thức ta và thiên nhiên có cùng một nguồn gốc là Đấng Tạo Thành, để ta tận hưởng thiên nhiên như ân phúc của Thiên Chúa, đồng thời ta ý thức trách nhiệm cộng tác với Đấng Tạo Thành để chăm sóc thiên nhiên, hướng về Trời Mới Đất Mới của Nước Thiên Chúa, ngày Chúa Giáng Lâm trong vinh quang. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến! 8. Mùa Vọng: Mùa màu xanh--Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’--GM. Giuse Vũ Duy Thống Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến chào mọi người. Khi biết tôi đang ở đó, nó chạy lại quấn quít hỏi: “Mùa Vọng, bác có lì xì cho cháu không?”. Tôi chưa biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo quanh quẩn giải thích. Thì ra ở lớp giáo lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần tới, tức hôm nay, Phụng Vụ chuyển sang năm mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa bé chẳng biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ rất kỹ chữ “năm mới”, vì thế mới có chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng chỉ được một lát, nó đã vòng lại khoe: cháu còn biết viết chữ “mùa vọng” nữa. Tôi bảo nó viết. Nó nằm bò trên sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng cũng xong và đưa đến cho mọi người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì “Mùa Vọng”, cháu đã viết lộn một nét để thành “Màu Vọng” khiến cả nhà được cười một trận. Tôi ra đi trong tiếng cười ấy và sự lẫn lộn của đứa cháu như đeo bám lấy mình, để cuối cùng bất giác tự hỏi: Mùa Vọng màu gì nhỉ? Xin được mượn tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng năm nay. Đó là gọi tên Mùa Vọng bằng những sắc màu. Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, xin được gọi Mùa Vọng là mùa màu xanh, hay đúng hơn là mùa xanh lên niềm hy vọng. Gọi thế sẽ nêu hai ý nghĩa: 1) Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người. Đã đành, lúc nào Thiên Chúa mà chẳng hy vọng vào con người. Do hy vọng, Ngài đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài. Cho hy vọng, Ngài đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với họ, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Nhưng Mùa Vọng chính là thời gian, chính là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con người qua lịch sử Dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo Hội và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người. Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô qua những chuyến viếng thăm chính thức của Người. Lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã đến âm thầm làm một người chan hòa giữa muôn người để đảm lĩnh lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Thế nhưng, lúc Người về trời, công trình của Người vẫn còn dở dang. Mọi sự dường như mới bắt đầu. Ơn cứu độ khách quan đã xong, nhưng chủ quan, áp dụng cho từng con người lại cứ tiếp tục phải khởi sự. Thế nên, Người hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết vũ trụ và con người, trong vinh quang để đặt mỗi người đối diện với chính Người như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi. Lần thứ nhất, do hy vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi và lần thứ hai, cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã gieo và giữa hai lần đến chính thức ấy là cơ man nào mà kể những lần âm thầm đột xuất ngẫu hứng bất ngờ, Đức Kitô vẫn sáng kiến hy vọng mà bước đến với con người, qua những biến cố xảy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân; qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận; và nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của họ giữa chốn chợ đời. Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người. 2) Mùa Vọng là mùa con người hy vọng vào Thiên Chúa. Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình. Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh cửu. Nhưng điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với khẩu hiệu “con người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp “Thiên Chúa là tương lai của con người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông. Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng “bốn mùa” xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go. Và cuối cùng, tỉnh thức trong hy vọng cũng có nghĩa là thao thức thường xuyên cùng với Giáo Hội để gieo niềm hy vọng vào chính môi trường mình sống. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một cuộc lên Đền từng bước, nhưng biết rằng ở đỉnh cao có Chúa đang chờ đợi. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng giống như kẻ đắp xây hòa bình, hãy đúc gươm đao thành cuốc thành cày, hãy rèn giáo mác nên liềm nên hái. Từng hạt lúa gieo, từng bước đi tới, rất âm thầm nhưng sẽ dẫn tới những cánh đồng bát ngát màu xanh hy vọng. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một chuyến đi có đích và có ích; đừng để trở thành “Chuyến đi không đến đâu” như bộ phim Úc mới chiếu trên tivi. Sống Mùa Vọng như thế chính là sống niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người. Và như vậy là êm đềm gợn sóng màu xanh lên chính cuộc đời tín hữu của mình. Mùa Vọng là mùa màu xanh. Sáng nay ngang qua cuối nhà thờ Tân Định thấy bày la liệt những cây thông Noel. Hai, ba tuần trước đã thấy nhưng vẫn còn xa lạ, nhưng hôm nay cùng với tiết trời trở lạnh và nhịp Phụng Vụ trở mình bước vào Mùa Vọng, tôi mới thấy những cây thông ấy đẹp làm sao, không vì kiểu dáng chất liệu cho bằng chính sắc màu của nó. Trong mắt nhìn của tôi, màu xanh của những cây thông ấy chính là màu xanh của niềm hy vọng vươn lên. Chúc mỗi người có một cây thông xanh thiêng liêng hy vọng nơi mình, để dẫu sống giữa những vòng quay điên đảo thử thách trăm bề, vẫn luôn kiên định trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa giống như đứa bé đòi lì xì, cứ “lì” ra trong niềm hy vọng, Thiên Chúa sẽ “xì” ra bàn tay cứu độ. Và thế là gặp gỡ đẹp xanh hy vọng. 9. Sống phẩm giá cao cả của con người--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng Phải chăng ăn uống cưới vợ lấy chồng là tội lỗi, nên bị trừng phạt? Chúa Giêsu nói: “Trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không biết gì cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn trôi đi hết thảy.” (Mt 24, 38-39). Ăn uống cưới vợ lấy chồng chắc là tội lỗi, nên bị lụt hồng thủy cuốn trôi đi! Thật ra, việc ăn uống lấy vợ lấy chồng là điều tốt lành mà Thiên Chúa tạo dựng loài người, trong chương trình sáng tạo của Ngài. Tự bản chất việc này là tốt đẹp, là không xấu. Nhưng cái tội, cái xấu là do chỉ lo “ăn uống, cưới vợ lấy chồng”. Ở đây, đáng lưu ý là chữ “chỉ lo”; chỉ lo làm ăn, lao động sinh sống, chỉ lo học hành, chỉ lo kinh doanh buôn bán, chỉ lo làm giàu. Cái tội là ở chỗ hạ mình xuống sống như một sinh vật tầm thường, chỉ lo việc trần thế mà quên đi chiều kích thiêng liêng của mình; quên đi cái linh thánh của mình. Sống giống như các sinh vật không có linh hồn khác, như Chúa Giêsu nói: “Họ không hay biết gì cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn trôi đi hết thảy.” (Mt 24, 39). Trong thế giới ngày nay, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển, rất nhiều người chỉ lo học lo hành, chỉ lo làm ăn, chỉ lo cưới vợ lấy chồng, chỉ lo tiêu thụ, chỉ lo hưởng thụ... Như người anh ở Mỹ viết thư về cho người em sắp được bảo lãnh qua Mỹ như sau: “Bây giờ các cậu đang ở VN còn có thời giờ để ngồi uống cà phê, nhưng qua Mỹ rồi, các cậu không con thời giờ để mà ngồi cà phê, tán dốc nữa đâu.” Dĩ nhiên chúng ta phải hòa nhập với cuộc sống, phải lo làm ăn sinh sống. Nhưng luôn có mối nguy hiểm là chúng ta dễ bị quên đi cái phẩm giá cao cả thiêng liêng của mình. Các nhà tâm lý học nhận định như sau: Tất cả chúng ta hoạt động theo những hình ảnh chúng ta có về thế giới. Chính những hình ảnh định đoạt cho những hành vi của ta phải như thế nào. Nhưng những hình ảnh có thể bị thay đổi do những hình ảnh mới được lập đi lập lại. Khi những hình ảnh của ta thay đổi thì hành vi chúng ta cũng thay đổi. Câu chuyện sau đây minh họa điều vừa nói: Một ngày kia có người lượm được một quả trứng của chim phượng hoàng, liền đặt nó vào ổ gà đang ấp ở sân sau. Từ quả trứng đó nở ra một chim phượng hoàng con và nó lớn lên giữa bầy gà con. Những ngày tháng đầu của cuộc đời phượng hoàng nhỏ này hoạt động như những gà con vì nó tưởng mình là một gà con như những gà con khác. Nó cũng bới đất tìm sâu, cũng kêu chiêm chiếp như gà con và cũng dương cánh lên một chút như gà con vậy. Nó vẫn nghĩ mình là gà con mà! Cho tới một ngày đẹp trời, nó thấy một chú chim bay lượn hết sức nhẹ nhàng trên bầu trời quang đãng. Nó chiêm ngưỡng chim đó trong một màn biểu diễn tuyệt vời. Giữa cảnh trời gió lộng mà mà chim đó không hề đập cánh! Nó tò mò hỏi đàn gà chung quanh: “Ô kia! Gà gì mà bay lượn ngọan mục thế nhỉ?” Nó được cho biết rằng đó là phượng hoàng, ông vua các loài chim chứ đâu phải là gà. Thế rồi bổng chính chú chim phượng hoàng đó từ trời cao nhào xuống bên cạnh nó và hỏi nó: “Anh làm gì ở đây vậy?’ Nó thưa: “Tôi đang bới đất tìm ăn với bọn gà.” Phượng hoàng sửng sốt nói: “Nhưng anh cũng là phượng hoàng như tôi đây, anh có phải là gà đâu! Hãy coi đôi cánh dũng mãnh mà anh được trang bị để bay lên cao. Chúng ta được sinh ra để làm vua các loài chim, chứ đâu phải sinh ra để làm mồi cho dã thú! Nào, ta hãy cùng bay theo hướng mặt trời.” Vậy là lần đầu tiên bỏ lại đàn gà đang bới đất ở sân sau, chim phượng hoàng tung cánh bay lượn một cách hạnh phúc giữa trời cao. Sống giữ thế giới bon chen, hưởng thụ, nhiều người tưởng mình như đàn gà ở sân sau. Trong bụng họ vẫn nghĩ mình không thể vươn cao ra khỏi tình trạng của đàn gà, chỉ quen bới đất tìm sâu ở sân sau! Họ không biết phải làm sao để thay đổi được lối hành xử đó. Họ đã bán rẽ bản thân họ cho huyền thoại từ bên Mỹ là: “Nếu bạn nai lưng làm việc, bạn muốn gì được nấy và muốn trở nên người như thế nào tùy ý.” Huyền thoại ấy, ngày nay tràn ngập khắp nơi trên thế giới công nghiệp, không chỉ riêng bên Mỹ nữa! Chính Đức Giêsu Kitô đã xuống thế làm người để nói cho chúng ta biết chúng ta là con cái Thiên Chúa và được sinh ra nhắm đến trời cao. Đức Giêsu không những đã thay đổi hình ảnh chim phượng hoàng tức loài người có về mình. Ngài còn dìu chúng ta lên cao giúp trãi qua kinh nghiệm đầu tiên, như chim phượng hoàng bay lượn gần mặt trời. Nhờ Đức Giêsu dìu dắt, con người phải sống vượt trên những sinh hoạt bình thường của trần thế. Phải sống với chính đời sống thánh thiện của Thiên Chúa ban cho; sống xây dựng Nước Trời; không chỉ ăn uống cưới vợ lấy chồng cho đến khi chết, mà có khi đến bất ngờ. Cần phải lồng vào đời sống bình thường ấy sự cao cả của tình yêu thương, đối nghịch lại một xã hội ích kỷ, tham lam. Sứ điệp trọng tâm của Đức Kitô vẫn là kêu gọi chúng ta xây dựng Nước Trời bằng chính sự phục vụ, yêu thương. 10. Ngày quang lâm--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm Mùa vọng là thời điểm dọn mình mừng Chúa Giáng Sinh. Nhưng tại sao Tin mừng nói đến ngày quang lâm? Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến, ngụ ý: người trên đưa vinh quang đến cho người dưới. Theo văn hóa Hy lạp, quang lâm (parousia) chỉ sự hiện diện sinh động của vua chúa trong các nghi lễ lớn như phong vương có kèn trống, ca hát, chúc tụng, tiến dâng phẩm vật. Quang lâm còn chỉ sự thần hiện giáng phúc như xưa ta nói: Thánh thượng giáng lâm. Theo Cựu ước, quang lâm là ngày của Thiên Chúa, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng đến xua đuổi đêm tối rợn rùng bao phủ dân Ngài. Isaia luôn luôn mô tả hai cảnh tương phản đó: “Trời hỡi, đất hỡi hãy lắng nghe Giavê phán: khốn thay nước tội lỗi, dân chất nặng vạ hình nòi giống ác nhân … Xứ sở các ngươi một cảnh điêu tàn, thành thị bị lửa thiêu, đất đai bị nước ngoài ngốn hết, cảnh điêu tàn như thời Sôđôma” (Isaia 1, 4... 7). Trước cảnh đen tối khốn cùng đó, Thiên Chúa vẫn đến cứu giúp đem lại vinh phúc cho con người: “Từ Sion thánh chỉ ban ra... Người sẽ phân xử cho muôn dân. Họ đúc gươm đao thành cày cuốc, rèn giáo mác nên liềm hái; dân này nước nọ không còn vung kiếm chém nhau và thiên hạ thôi học bài chinh chiến. Hỡi nhà Giacóp ta hãy bước đi trong ánh sáng nước trời” (Isaia 2, 3b-5). Tân ước diễn tả ngày quang lâm đột xuất xẩy đến giữa thời điểm đen tối của con người: “Đêm sắp tàn, trời gần sáng” (Rm. 13, 12). Trong sa mạc Gioan Tẩy giả đã rao giảng: “Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến …”. Sa mạc là cảnh khô cằn nóng như lửa đốt, Đấng Cứu thế đến sẽ biến sa mạc thành nước Trời. Nước Trời ví như ngày mùa lúa đầy sân, đầy kho lẫm, hình ảnh này biểu lộ sự vinh quang, hằng sống của nước Trời. Về cuối đời ở trần thế, Chúa Giêsu mô tả thời cánh chung có hai cảnh tương phản nhau: một cảnh tận diệt khủng khiếp, lừa gạt, giặc giã, chiến tranh, tội ác đầy ứ, bắt bớ chém giết, mặt trời mặt trăng tối sầm, tinh tú sa xuống. Một cảnh quang lâm như một lễ hội rực rỡ đầy quyền năng, vinh quang của Con người tỏ hiện trên mây trời, ngự trên ngai uy nghi có hết thảy thiên thần hầu cận, thổi loa vang dậy, tập họp muôn dân thiên hạ trước mặt Ngài (Mt. 24, 4-31; 25, 31-46). Như vậy ngày quang lâm là ngày chấm dứt thời gian đen tối, mở ra thời đại huy hoàng. Cựu ước mong chờ một ông Vua thái bình, một người Cha muôn thuở. Tân ước loan báo ngày Thánh thượng giáng lâm chúc phúc cho muôn dân đến muôn đời. Mùa Vọng hội tụ cả hai ý nghĩa Cựu ước và Tân ước. Sống tâm tình Cựu ước, ta đầy tin tưởng vui mừng vì bỉ cực thái lai, đêm qua ngày tới, sau giông tố trời lại sáng, có sa ngã thì có cứu độ, có lưu đầy thì có đất hứa, có Pharaon thì có Maisen, có Adam thì có Đấng Cứu thế. Sống tâm tình Tân ước, ta càng bùng cháy niềm tin yêu dạt dào, tràn đầy niềm vui vì Đấng Cứu thế đã đến rồi, đêm đông đã chan hòa ánh sáng, đồng hoang đã vang dội tiếng muôn thiên thần mừng hát Đấng đã ban ánh sáng chiếu soi cho muôn dân ngồi trong bóng tối tử thần. Ngày 26 tháng 11 Năm 2022 Bài liên quan CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY Năm C CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY-C 03.04.2022 – CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY Năm C CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT LỄ LÁ- C 17.04.2022 - CHÚA NHẬT PHỤC SINH Năm C